CHƯƠNG II ĐẮK LẮK - MẢNH ĐẤT GIÀU TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA
1.Tín ngưỡng, lễ hội tiêu biểu
Lễ cúng cơm mới
Theo phong tục của người Ê - đê, sau khi thu hoạch lúa xong, mọi gia đình đều làm lễ cúng cơm mới đế cầu cho mùa vụ năm tới thóc lúa, ngô, khoai đầy kho, cuộc sống ấm no hơn.
Hình 19. Lễ cúng cơm mới của người Ê - đê
Lễ hội đua voi
Diễn ra ở Buôn Đôn vào khoảng tháng 3 hằng năm. Voi đã đi vào tâm thức người dân Đắk Lắk nói riêng cũng như cả dải núi rừng Tây Nguyên nói chung như một biểu tượng của sức mạnh đoàn kết cộng đồng, của gia đình và buôn làng. Lễ hội đua voi được tổ chức nhằm tôn vinh sức mạnh của loài động vật này.
Hình 20. Hội đua voi (http://news.zing.vn)
Lễ hội đàn trâu (hội Xuân)
Diễn ra từ tháng 12 đến tháng 3 âm lịch.Khi lúa đã được đưa vào kho, buôn làng đã được trang trí để đón xuân, dân làng sẽ mở hội đâm trâu để tiễn biệt năm cũ, đón chào năm mới.
Hình 21. Lễ hội đâm trâu (http://dulichtaynguyen.org)
Lễ cúng bến nước
Đây là sinh hoạt cộng đồng đậm chất văn hoá, một trong những nghi lễ quan trọng của các dân tộc thiểu số Đắk Lắk. Với con người nơi đây, nước còn quan trọng hơn cả cơm ăn, áo mặc. Vì vậy, Thần Nước được người dân thờ cúng với lòng thành kính đặc biệt. Lễ cúng bến nước được tổ chức sau khi thu hoạch vụ mua và sau Lễ mừng lúa mới để tạ ơn Thần Nước.

Hình 22. Lễ cúng bến nước của người Ê - đê (http://danviet.vn)
Trong cuộc đời của người đàn ông Gia - rai, Ê - dê, cứ đến lúc đủ sức gánh vác mọi việc của buôn làng, nhất định phải thực hiện một nghi thức trọng đại là Lễ trưởng thành.
Người Ê - đê gọi là lễ Mpú, thường tổ chức khi người đàn ông ở độ tuổi 18 – 25, tuỳ vào điều kiện kinh tế gia đình mà làm sớm hay muộn. Sau buổi lễ, chàng trai được công nhận là người đã trưởng thành, có thể chủ động thực hiện những việc lớn cho đời mình như lập gia đình hay ra ở riêng.
Hình 23. Lễ trưởng thành (http://langvietonline.vn)
Lễ hội cà phê Buôn Ma ThuộtTổ chức ở thành phố Buôn Ma Thuột, định kì hai năm một lần, bắt đầu từ năm 2005. Đây là một lễ hội lớn ở Tây Nguyên, được Thủ tướng Chính phủ công nhận là lễ hội cấp quốc gia. Lễ hội nhằm tôn vinh cây cà phê, loài cây chiếm vị trí chủ yếu trong cơ cấu cây trồng ở Đắk Lắk và chiếm 60% sản lượng cà phê của Việt Nam.
Hình 24. Đoàn voi Đắk Lắk diễu hành trên đường phố Buôn Ma Thuột trong lễ hội (https://travel.com.vn)
Lễ hội văn hoá cồng chiêng
Được tổ chức nhằm tôn vinh, quảng bá giá trị di sản của không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên. Lễ hội được tổ chức hằng năm theo hình thức luân phiên tại các tỉnh có văn hoá Cồng chiêng, trong đó Đắk Lắk thường được chọn do có vị trí trung tâm văn hoá, chính trị, xã hội của khu vực Tây Nguyên, nơi có nhiều cồng chiêng nhất Việt Nam.
Hình 25. Lễ hội văn hóa cồng chiêng tổ chức tại Đắk Lắk nắm 2007 (https://vi.wikipedia.org)
2. Ẩm thực
Cơm lam
Đây là món ăn đặc trưng của đồng bào Tây Nguyên. Để cơm làm ngon, trước khi nấu người ta phải ngâm gạo nếp, sau đó cho gạo vào ống nứa, lấy lá chuối bịt nút lại, đặt lên bếp. Khi nấu cần quay tròn ống nứa để cơm sôi, chín đều. Khi ăn, ống cơm lam được bỏ phần cật nứa bên ngoài, để lại lớp vỏ lụa mỏng bên trong rồi cắt thành từng khúc, dùng khi còn nóng, để cảm nhận hết vị thơm ngon, dẻo ngọt độc đáo của cơm.
Hình 26. Cơm lam (http://dulichtaynguyen.org)
Gà nướng Bản Đôn
Gà nướng Bản Đôn là một món ăn dân dã của đồng bào bản địa và đến nay đã trở thành đặc sản với du khách khi đến Bản Đôn. Gà sau khi làm sạch đem nướng trên bếp than, không cần ướp bất cứ một gia vị nào. Ăn kèm với muối sả và ớt được làm theo một công thức đặc biệt. Mùi thơm của gà nướng quyện với muối sả, ớt tạo thành một món ăn riêng biệt mà chỉ Bản Đôn mới có.
Hình 27. Gà nướng Bản Đôn (https://www.ivivu.com)
Món canh thụt
Đây là món canh bổ dưỡng được nấu với nhiều loại rau củ, bột bắp, thịt rừng hoặc cá suối, ít con mối và dễ dãi. Đặc biệt, phải có lá nhíp (vị cay đắng, ngọt béo, deo dẻo), cà đắng làm vị chủ đạo.
Ống tre để nấu không chọn tre non vì nhựa cây có mùi hăng đắng hay ống tre già vì khi nấu lửa sẽ làm nứt ống, canh chảy ra; phải chọn ống tre giữ lại mấu ở một đầu. Khi nấu không được dựng ống thẳng đứng mà phải để nghiêng và phải quay đều ống để canh chín đều.
Khi vừa chín, người ta lấy cái gai mây cho vào ống thật nhẹ nhàng xem các loại củ đã nhừ chưa. Các món phải quyện vào nhau thành một chất dẻo, Khi đó mới cho muối, ớt, bột ngọt và thụt đều.
Hình 28. Món canh thụt (images.alobacsi.vn)
Cá lăng
Cá lăng, một đặc sản mà thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho người Tây Nguyên, là loài cá nước ngọt, thuộc bộ cá da trơn, có nhiều trên sông Sêrêpốk. Cá có vị ngọt, béo, thơm ngon nên đã có mặt trong thực đơn của các quán ăn, nhà hàng, khách sạn và được nhiều thực khách ưa chuộng.
Hình 29. Cá lăng và lẩu cá lăng (https://www.ivivu.com)
Măng le
Cây le thuộc họ tre nứa khá điển hình trên vùng đất Đắk Lắk. Măng le thuộc loại ngon nhất trong các loài măng như măng tre, măng trúc, nhờ tính đặc ruột, vị ngọt, bùi, không đắng chát. Măng le tươi có thể chế biến thành các món đơn giản nhưng đầy hương vị là gỏi măng trộn hay măng le nấu cùng thịt vịt, măng le hầm giò heo, măng le xào gan,... Tất cả đều rất thơm ngon, bổ dưỡng.
Hình 30. Măng le (http://www.tintaynguyen.com)
Cà đắng
Cà đắng là một loại cà dại mọc nhiều trên rừng, trên nương rẫy, hiện nay đã được người dân khu vực Đắk Lắk trồng trong vườn nhà. Cây ra quả quanh năm, quả cà dài, to hơn quá cà pháo, có gai, màu xanh sọc đốm trắng, đặc biệt có vị đắng rất đặc trưng.
Cà đắng được chế biến thành nhiều món ăn khác nhau trong bữa cơm của người dân tộc Ê - đê như nấu với cá tươi, cá khô, tép khô, thịt rừng,... Ngoài nấu chín, người Ê - đê còn ăn sống bằng cách giã nát rồi cho thêm gia vị : muối, ớt, bột ngọt, lá é, lá và củ nén.
Hình 31. Cà đắng (http://doisong.vn)
Rượu cần
Rượu được làm từ gạo, ngô, bo bo, sắn, kê,... tất cả rửa sạc đem ngâm, sau đó trộn với men (làm từ rễ dây men phơi khô gia với củ riềng) bỏ vào ché. Lấy lá chuối bịt miệng ché. Hạ thổ 5, 6 ngày là dùng được. Ủ càng lâu rượu càng thơm. Khi uống, đổ nước suối hoặc nước đun sôi để nguội vào vò rượu, dùng cần trúc cắm vào và hút. Rượu cần không uống một mình hay uống để giải sâu mà uống cùng nhiều người vào những ngày mùa bội thu hay khi tiếp bạn bè, khách quý. Uống rượu cần là một cách thể hiện tình đoàn kết, giao hảo và thân thiện của người địa phương.
Hình 32. Rượu cần (http://tiin.vn)
Cà phê
Cà phê được du nhập vào Đắk Lắk từ rất sớm. Cà phê Buôn Ma Thuột luôn được đánh giá là có chất lượng cao, hương vị đặc trưng, được thế giới biết đến như một thương hiệu riêng. Địa danh Buôn Ma Thuột cũng được nhiều người ví như một thủ phủ cà phê hay thánh địa cà phê của Việt Nam do ở đây cây cà phê chiếm giữ vị trí độc tôn. Cây cà phê đã góp phần đưa Buôn Ma Thuột từ một thị xã của tỉnh lẻ cao nguyên trở thành một thành phố sầm uất.
Hình 33. Quả cà phê (http://en.dangcongsan.vn)
Mật ong
Đắk Lắk, nơi bạt ngàn hoa rừng, tạo điều kiện để phát triển những đàn ong lớn nhằm cung cấp các sản phẩm như: mật ong, phấn hoa, sữa ong chúa, nọc ong, sáp ong, keo ong,...
Hình 34. Tổ ong và mật ong (http://matong.net.vn)
3. Một số loại hình văn hoá truyền thống khác
Sử thi
Sử thi là những bản anh hùng ca có quy mô lớn và xuất hiện rất sớm, mang ý nghĩa trọng đại đối với các dân tộc trong buổi bình minh của lịch sử. Sử thi tồn tại dưới dạng truyền miệng và có nguồn gốc dân gian. Các tộc người ở Đắk Lắk (như Ê - đê, Mnông, Gia - rai,... ) có một kho sử thí khá đồ sộ, đặc sắc, tiêu biểu là bộ sử thi Đam San.
Cồng chiêng
Các dân tộc ít người ở Đắk Lắk (như Ê - đê, Gia - rai, Mnông,...) có hai nhạc cụ chính là cồng và chiêng.
Cồng chiêng là loại nhạc khí biểu hiện tính cộng đồng rất cao, mang những giá trị về âm nhạc, phong tục tập quán và còn phản ánh sức mạnh vật chất, sự giàu có của cá nhân, gia đình, dong họ, buôn làng. Cồng chiêng đã thực sự gắn bó với đời sống hằng ngày của đồng bào Đắk Lắk, là linh hồn, là xương, là thịt của các dân tộc ở đây.
Hình 35. Hòa tấu cồng chiêng (http://disanthegioi.cinet.gov.vn)
Luật tục các tộc người ở Đắk Lắk
Luật tục (hay tập quán pháp) là công cụ điều hành xã hội cổ truyền của các cư dân cư trú lâu đời trên vùng đất Tây Nguyên. Tại Đắk Lắk, các tộc người Ê - đê, Gia - rai, Mnông đều có luật tục. Các bộ luật này tồn tại bằng hình thức truyền khẩu.
Luật tục có vai trò quan trọng trong duy trì sự ổn định của buôn làng, gìn giữ các phong tục tập quán tốt đẹp của cộng đồng và bảo tồn bản sắc văn hoá tộc người.
Không có nhận xét nào: